Huyền Trân Công Chúa – Cách làm món ngon nhanh nhất
Huyền Trân Công Chúa có phải là thông tin đang được bạn quan tâm tìm hiểu? Website Hoa Ưu Đàm sẽ giới thiệu cho bạn những thông tin mới nhất chính xác nhất về Huyền Trân Công Chúa trong bài viết này nhé!
Nội dung chính
Video: Hoa Trân Công Chúa (Nữ Hoàng Sân Khấu Mỹ Châu)
Bạn đang xem video Hoa Trân Công Chúa (Nữ Hoàng Sân Khấu Mỹ Châu) mới nhất trong danh sách Món ăn được cập nhật từ kênh Nữ Hoàng Sân Khấu Việt Nam – Queen stage of Vietnam từ ngày 2012-11-01 với mô tả như dưới đây.
Cuộc đời[sửa | sửa mã nguồn]
Công chúa không rõ tên thật, theo dã sử Đền thờ Huyền Trân công chúa tại Huế, bà được cho là hạ sinh vào năm 1289[4], mẹ công chúa có thể là Khâm Từ Bảo Thánh hoàng hậu – trưởng nữ của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Tuy nhiên, cũng có khả năng bà là con gái của Tuyên Từ hoàng hậu, em gái của Khâm Từ hoàng hậu. Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn vào Chiêm Thành, được Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, có ở lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Thái thượng hoàng có hứa gả con gái cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là Vương hậu Tapasi, người Java (Indonesia ngày nay). Sau đó nhiều lần, Chế Mân cử sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng nhiều quan lại nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc vương Trần Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành.
Năm Bính Ngọ, Hưng Long năm thứ 14 (1306), tháng 6, Chúa Chiêm Thành là Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua Trần Anh Tông khi đó mới đồng ý gả Công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Công chúa khi về Chiêm Thành, được phong làm Vương hậu thứ 2 với phong hiệu là Paramecvari [5]. Năm Đinh Mùi (1307), vào tháng 5, quốc vương Chế Mân chết. Nghĩa là chỉ một năm sau khi cuộc liên hôn giữa Đại Việt và Chiêm Thành diễn ra. Thế tử Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng và có thể cũng để báo tang sự việc này.
Theo Đại Việt sử ký chép lại, Trần Anh Tông khi đó nghe rằng theo tục nước Chiêm, Quốc vương chết thì Vương hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Trần Anh Tông liền cử Hành khiển Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu công chúa. Trần Khắc Chung thành công, cứu được công chúa và đưa xuống thuyền, đưa công chúa về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm. Trong cuộc hành trình trở về, công chúa còn đi theo Thế tử Đa Da, vì vậy về sau không ít người cho rằng Thế tử là con của công chúa. Tuy nhiên xét theo hành trạng có thể cử sứ thần sang báo tang, Thế tử rất có thể chẳng phải là con của Huyền Trân công chúa, và việc đi cùng với công chúa về là do lý do chính trị nào đó mà thôi. Về sau, Đại Việt sử ký không còn bất kỳ ghi chép nào về hành trạng của công chúa.
Chi tiết thông tin cho Huyền Trân Công chúa – Wikipedia tiếng Việt…
“Quốc tôn thần nữ vọng muôn thu”
Giới nghiên cứu gọi ngôi miếu cạnh chùa Thái Sơn (đường Sư Vạn Hạnh, P.Hòa Hải, Q.Ngũ Hành Sơn) là miếu thờ vọng Huyền Trân công chúa. Còn người dân địa phương quen gọi ngôi miếu này là miếu Bà.
Ông Trần Văn Thuận (63 tuổi, trú tại tổ 20, P.Hòa Hải), người trông nom, nhang khói cho ngôi miếu, kể từ bao đời nay, vào ngày 16 tháng 2 âm lịch hằng năm, người dân đều đặn tổ chức cúng tế trang nghiêm tại ngôi miếu.
Miếu thờ Huyền Trân công chúa tựa lưng vào hòn Kim Sơn |
Ban Quản lý di tích danh thắng Ngũ Hành Sơn dẫn bài viết Miếu công chúa Huyền Trân của tác giả Lê Hoàng Vinh và Lê Anh Dũng, cho biết riêng TP.Đà Nẵng, ở vùng Hóa Khuê cũ là tụ điểm dân cư Việt sớm nhất trong lịch sử bên sông Hàn. Tựa lưng vào núi Kim Sơn – trong quần thể Ngũ Hành Sơn, tổ tiên đã truyền lại miếu thờ bà Huyền Trân công chúa, xây dựng bằng gạch Chăm cổ, có văn bia và nơi thờ tự nghiêm chỉnh. “Tiếc rằng, khoảng những năm 1980, do trào lưu thực hành “bài trừ mê tín dị đoan” thiếu sáng suốt phân biệt, miếu Bà bao gồm văn bia đã bị đập phá san bằng, may còn lưu giữ một số dấu vết cũ”, bài viết nêu.
Theo ghi nhận, bên cạnh thiết kế truyền thống, khi xây dựng lại ngôi miếu, cư dân địa phương đã cố gắng bảo tồn nét xưa cũ bằng cách làm hàng rào cách điệu bằng gạch Chăm xưa. Để xiển dương công đức lớn lao của Huyền Trân công chúa bởi cuộc hôn nhân hòa hiếu chính trị của bà với vua Chế Mân (Champa) vào năm 1305, người dân địa phương cũng khắc 2 câu đối trước bàn thờ: Quốc tôn thần nữ vọng muôn thu/Thiên tạo Kim Sơn danh vạn thế. Nhờ bà mà một phần đất rộng lớn từ bờ nam sông Hiếu (Quảng Trị) đến bờ bắc sông Thu Bồn (Quảng Nam) trở thành lãnh thổ của Đại Việt.
Lập miếu “hàm ý lưu dấu nơi dừng chân”
Trong bài viết Miếu công chúa Huyền Trân, các tác giả dẫn lại thông tin lịch sử mùa hạ, tháng 6 (năm Bính Ngọ 1305), nhà Trần gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành là Chế Mân… Chẳng may, đến tháng 5 Đinh Mùi 1307, trong lúc công chúa đang có thai, vua Chế Mân bị bạo bệnh qua đời. Theo luật tục, hoàng hậu phải chịu hỏa thiêu chết theo vua. Hay tin, vua Trần Nhân Tông đã sai thượng tướng Trần Khắc Chung đưa theo hàng nghìn thủy thủ, tùy tùng đi thuyền sang Đồ Bàn (kinh đô Chiêm Thành, nay ở Bình Định) vào cuối năm 1307 để giải cứu công chúa.
Người dân thường xuyên nhang khói tại miếu thờ vọng Huyền Trân công chúa ở Ngũ Hành Sơn HOÀNG SƠN |
n
Đến nơi, đoàn sứ Việt xin lập trai đàn trên một số chiến thuyền được kết lại ở ngoài biển để làm lễ cho vua Chế Mân và xin đón hoàng hậu đích thân ra tới trai đàn cúng tế chiêu hồn cho chồng theo phong tục Việt, trước khi quay vào bờ lên giàn hỏa thiêu. Khi thuyền của hoàng hậu đang đi trên biển thì thủy quân Việt bất ngờ đón lấy giong buồm về phía bắc. Chính chi tiết này cùng với việc miếu Huyền Trân được lập tựa lưng vào hòn Kim Sơn mà có nhiều ý kiến cho rằng trên đường trở về Thăng Long, công chúa đã cập thuyền trên sông Cổ Cò và ghé lại Ngũ Hành Sơn.
Thượng tọa Thích Huệ Vinh, trụ trì chùa Quán Thế Âm, một người nghiên cứu văn hóa Ngũ Hành Sơn, cho rằng bao đời nay đã có miếu Bà thì không thể không tồn tại câu chuyện công chúa ghé chân. Dù vậy, đây là câu chuyện rất khó có thể chứng thực. Để làm phong phú các hoạt động văn hóa tại lễ hội Quán Thế Âm, năm 2017, thượng tọa đã hình tượng hóa Huyền Trân công chúa trong hội đua thuyền. Thượng tọa tái hiện cảnh quân Chiêm Thành đuổi theo sau khi thượng tướng Trần Khắc Chung lập mưu đưa công chúa về Đại Việt bằng thuyền. Từ đó các đội đua rất hứng thú khi phải nỗ lực đoạt cờ để cứu công chúa.
Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử TP.Đà Nẵng Bùi Văn Tiếng cho rằng việc nhân dân nhiều địa phương lập đền miếu thờ Huyền Trân công chúa thể hiện lòng tri ân của hậu thế đối với một công chúa Đại Việt đã góp phần phát triển tình hữu nghị láng giềng giữa Việt – Chăm. Do vậy, ngoài việc bày tỏ lòng biết ơn đối với tiền nhân, 2 miếu thờ vọng Huyền Trân công chúa trên địa bàn Q.Liên Chiểu và Q.Ngũ Hành Sơn còn “hàm ý lưu dấu nơi công chúa từng dừng chân”.
“Tuy nhiên, chưa có tư liệu nào ghi nhận việc Huyền Trân công chúa đã đến vùng đất Đà Nẵng từ bao giờ và bao nhiêu lần. Theo tôi, Huyền Trân công chúa không nhất thiết chỉ dừng chân ở 2 quận trên khi đang trên đường rời Champa về lại Thăng Long. Điều đó có nghĩa là với tư cách vợ vua Chế Mân, từ kinh đô Đồ Bàn, công chúa Đại Việt hoàn toàn có thể đến đây để ngoạn cảnh núi Ngũ Hành và vịnh Nam Ô – những thắng cảnh về mặt danh nghĩa đang thuộc quyền quản lý của Đại Việt và cũng rất gần, chỉ cách biên giới Champa con sông Thu Bồn”, ông Tiếng phân tích thêm.
(còn tiếp)
Chi tiết thông tin cho Bí ẩn Ngũ Hành Sơn: Nơi Huyền Trân công chúa từng dừng chân?…
Từ khóa người dùng tìm kiếm liên quan đến Huyền Trân Công Chúa
Hoa, Trân, Công, Chúa, (Nữ, Hoàng, Sân, Khấu, Mỹ, Châu)